It’s Time for Sustainability to Become a Core Part of MBA Programs
Harvard Business Review (by Magali Delmas and Brad Sparks - February 07, 2024)
Mức độ: C - Khó
CEFR level | Số từ | Tỉ lệ |
Tổng | 1181 | 100% |
A1 | 604 | 51% |
A2 | 131 | 11% |
B1 | 76 | 6% |
B2 | 179 | 14% |
C1 | 61 | 5% |
Không phân loại | 139 | 12% |
Tóm tắt: Các trường kinh doanh phải điều chỉnh chương trình giảng dạy <curriculum> của mình để đáp ứng nhu cầu <demand> ngày càng tăng đối với các chuyên gia <professional> có kiến thức và kinh nghiệm về tính bền vững <sustainability> và quản lý biến đổi khí hậu...
...Nhu cầu này được thúc đẩy bởi các quy định <regulation> đang dần phát triển <evolve> về việc công bố/công khai thông tin <disclosure> khí hậu toàn cầu, ví dụ như các quy định do Ủy ban <Commission> Chứng khoán và Sàn giao dịch Hoa Kỳ (SEC) đề xuất <propose> và được thi hành <implement> ở California và EU (European Union - Liên minh châu Âu), chỉ thị <mandate> các tập đoàn <corporation> phải công khai <disclose> các rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu và lượng khí thải <emissions> carbon của mình, bao gồm cả khí thải gián tiếp (Phạm vi 3*). Hiện tại, nhiều công ty còn thiếu <fall short> chất lượng và tính nhất quán <consistency> trong các công bố thông tin về tính bền vững, làm nổi bật khoảng cách đáng kể <significant> về kỹ năng trong lực lượng lao động <workforce>. Các trường kinh doanh phải kết hợp chặt chẽ <incorporate> các phương pháp tiếp cận <approach> liên ngành <interdisciplinary> trong chương trình của mình, kết hợp khoa học môi trường và khí hậu với các kỹ năng kinh doanh truyền thống như kế toán <accounting>, chiến lược và quản trị carbon. Chương trình giảng dạy nên khuyến khích phát triển <foster> một ngôn ngữ chung giữa các môn học <discipline>, chẳng hạn như tính bền vững và kế toán, và bao gồm cả hoạt động học tập dựa trên kinh nghiệm <experiential> thực tiễn. Mặc dù một số công ty kế toán và hiệp hội <association> thương mại đang cung cấp các khóa học về tài chính <finance> khí hậu, nhưng nỗ lực này vẫn chưa đủ <insufficient> so với những gì mà một chương trình MBA toàn diện <comprehensive> và tập trung vào khí hậu có thể mang lại. Việc điều chỉnh <adaptation> chương trình giảng dạy của trường kinh doanh không chỉ là điều tất yếu <necessity> mà còn là cơ hội dẫn đầu trong việc đào tạo các nhà lãnh đạo tương lai về tính bền vững của doanh nghiệp.
Với sự ra đời <advent> của các quy định nghiêm ngặt về công bố thông tin khí hậu, các tập đoàn đang rất cần một lực lượng lao động được trang bị <equipped> những kỹ năng cần thiết để đáp ứng các nhu cầu mới. Tuy nhiên, rất ít chuyên gia sở hữu <possess> những kỹ năng liên ngành thiết yếu cho nhiệm vụ này. Các trường kinh doanh có cơ hội tốt <prime opportunity> để chuẩn bị cho thế hệ tiếp theo khả năng lãnh đạo <leadership> trong quá trình chuyển đổi <transition> sang nền kinh tế carbon thấp. Nhưng nhiệm vụ này vượt quá phạm vi <scope> hiện tại của họ. Nó đòi hỏi <call for> một cách tiếp cận liên ngành, mở rộng ra ngoài giáo dục kinh doanh truyền thống.
Tại sao các trường kinh doanh phải hành động
Một sự thay đổi toàn cầu đang diễn ra <underway> theo hướng minh bạch <transparency> trong các hoạt động liên quan đến khí hậu. Ủy ban Chứng khoán và Sàn giao dịch Hoa Kỳ (SEC) sắp <on the brink of> hoàn thiện một quy tắc mới mà sẽ thực thi <enforce> việc công khai thông tin khí hậu bắt buộc <mandatory> đối với các công ty đại chúng. Đồng thời <Concurrently>, California đã ban hành <enact> các dự luật <bill> công khai thông tin về biến đổi khí hậu vào tháng 10, SB261 và SB253. Luật pháp của California phù hợp <align> với các sáng kiến <initiative> công bố thông tin của Liên minh Châu Âu và các yêu cầu <requirement> công bố thông tin quốc tế đang nổi lên <emerging> khác. Những vấn đề khác cũng đang nhen nhúm <loom>, chẳng hạn như những đề xuất của Lực lượng Đặc nhiệm Kế hoạch Chuyển đổi Vương quốc Anh (the UK Transition Plan Taskforce).
California quy định <stipulate> rằng các công ty phải báo cáo lượng khí thải <emission> trực tiếp của mình trong năm 2025 muộn nhất là vào năm 2026; báo cáo mức phát thải Phạm vi 3 trước năm 2027. Các hình phạt <penalty> có thể xảy ra đối với việc không tuân thủ <noncompliance> lên tới 500.000 USD mỗi năm. Các công ty phải chuẩn bị một bản báo cáo tiết lộ rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu và các kế hoạch để giảm thiểu <alleviate> chúng. Một nghiên cứu ước tính <estimate> rằng 73% các công ty trong danh sách Fortune 1000 chịu ảnh hưởng <fall under> của dự luật SB 253 và SB 261.
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chất lượng công bố thông tin về tính bền vững của doanh nghiệp dưới mức chuẩn <subpar>, với việc công bố dữ liệu cần thiết ở mức thấp, không đồng đều <spotty> và nhầm lẫn/mập mờ <confusion> về những thông tin được công bố. Các tập đoàn lớn thường báo cáo lượng khí thải trực tiếp từ các nguồn như nhà máy và đôi khi <occasionally> là ô nhiễm do tiêu thụ <consumption> điện. Tuy nhiên, họ hiếm khi <seldom> tiết lộ <reveal> lượng phát thải gián tiếp, chiếm tới 3/4 tổng lượng phát thải. Trong các công ty thuộc Fortune 300, chỉ có 61,2% chia sẻ lượng phát thải thuộc Phạm vi 3 và dữ liệu đó được báo cáo không nhất quán. Khả năng <capability> thu thập và báo cáo dữ liệu trong các công ty phải được cải thiện.
Hơn nữa, các yêu cầu liên quan đến đảm bảo sẽ buộc <compel> kiểm toán viên <auditor> phải kiểm tra lượng phát thải được báo cáo, làm tăng nhu cầu về kiến thức chuyên ngành <specialized> ở các công ty và kiểm toán viên. Ước tính chi phí tuân thủ <compliance> theo quy định của SEC là khoảng 530.000 USD và nhiều công ty thuộc S&P 500 dự kiến sẽ thuê thêm <additional> chuyên gia trong nhóm của họ. Ví dụ, theo các cuộc phỏng vấn mà chúng tôi đã thực hiện với công ty, Amazon đã bố trí các chuyên gia trong bộ phận tài chính để đáp ứng các yêu cầu mới nổi về báo cáo ESG.
Các trường kinh doanh có thể làm gì để đáp ứng nhu cầu
Để giải quyết <address> những thách thức này, các trường kinh doanh nên cải tiến <revamp> chương trình giảng dạy của mình để đảm bảo <ensure> chương trình bao gồm các kỹ năng cụ thể cần thiết cho các chuyên gia bền vững mới. Điều này liên quan đến sự hợp tác <partnership> với các bộ phận môi trường và kỹ thuật để cung cấp một nền giáo dục toàn diện <rounded> hơn. Các chương trình này nên kết hợp <blend> chuyên môn <expertise> về khoa học môi trường và khí hậu với các kỹ năng kinh doanh thiết yếu như tính toán, chiến lược và quản trị carbon. Họ cũng nên tích cực tuyển dụng <recruit> giảng viên <faculty> chuyên về tính bền vững và phát triển các chương trình được thiết kế đặc biệt để bổ sung vào khoảng trống kỹ năng đã được các chuyên gia trong ngành xác định.
Giảm thiểu <mitigation> và thích ứng với biến đổi khí hậu có liên quan đến tất cả các lớp MBA cốt lõi <core>, và vì vậy tất cả giảng viên nên được khuyến khích kiểm tra tính bền vững trong các khóa học mở đầu <introductory> của họ. Những khóa học chiến lược phải giúp sinh viên xác định các chiến lược phát thải ròng bằng 0 và đặt ra các mục tiêu có thời hạn phù hợp <relevant> với chuỗi giá trị. Những khóa học tài chính phải dạy sinh viên về trái phiếu <bond> xanh, định giá <pricing> carbon, các khoản vay <loan> liên kết tới tính bền vững và các công cụ quan trọng <crucial> khác cho quá trình chuyển đổi <transition>, v.v. Người hướng dẫn nên cung cấp hoạt động học tập qua trải nghiệm trong đó học sinh tham gia <engage> vào việc thu thập và phân tích dữ liệu trực tiếp. Trong lớp Kinh doanh & Môi trường tại Anderson, chúng tôi đã phát triển một phương pháp như vậy, sinh viên thu thập dữ liệu về tính bền vững được công bố của doanh nghiệp từ các công ty thực tế <actual> trong S&P 500 và sau đó đưa ra các khuyến nghị sâu sắc cho các doanh nghiệp này. Cách tiếp cận với các tình huống <scenario> thực tế này giúp hiểu sâu hơn và cung cấp các kỹ năng thực tiễn.
Hơn nữa <Moreover>, chương trình giảng dạy cần phá bỏ khoảng cách <silos> giữa các môn học. Ví dụ <For instance>, nhu cầu cấp thiết về ngôn ngữ chung giữa các chuyên gia về tính bền vững và kế toán viên <accountant>, những người hiện đang hoạt động <operate> ở các bước sóng khác nhau. Những người thực hiện <practitioner> phát triển bền vững hiểu cách đo dấu chân carbon nhưng có thể không quen với các khuôn khổ <framework> kiểm soát nội bộ <internal>. Kế toán viên không được đào tạo về phương pháp <methodology> phát thải carbon và phải phụ thuộc vào các chuyên gia về tính bền vững.
Những sự ngắt kết nối này mở rộng <extend> đến các bộ phận tài chính, nơi các giám đốc tài chính (CFO) chịu trách nhiệm về dữ liệu carbon được tiết lộ nhưng có thể không nắm bắt <grasp> được các sắc thái/ẩn ý <nuance> của việc thu thập dữ liệu hoặc sự khác biệt giữa các mô hình. Sự tích hợp <integration> như vậy rất quan trọng đối với các chuyên gia, bao gồm cả CFO và nhân viên của họ, những người ngày càng <increasingly> chịu nhiều trách nhiệm về dữ liệu carbon được công bố nhưng thường thiếu hiểu biết sâu sắc về các sắc thái của nó. Các CFO nhận ra sự mất kết nối này. Một cuộc khảo sát CFO sắp tới <forthcoming> của Kế toán Bền vững (Accounting for Sustainability - A4S) cho thấy chỉ có 10% đội ngũ tài chính được coi là có đủ năng lực <capable> trong việc nghiên cứu <consideration> về môi trường và xã hội.
Lấp khoảng trống
Khi các trường kinh doanh chậm trễ <tardy> trong việc đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng về chuyên gia bền vững được đào tạo, các công ty kế toán và hiệp hội <association> thương mại đang hành động <step up> để lấp khoảng trống. Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh quốc (Association of Chartered Certified Accountants - ACCA) và Viện <Institute> CFA (Chartered Financial Analyst), hiệp hội các chuyên gia đầu tư <investment> toàn cầu, đã mở khóa học Tài chính Khí hậu do các chuyên gia của họ thiết kế. Deloitte đã giới thiệu chương trình học tập về khí hậu và tính bền vững toàn cầu cho 415.000 nhân viên của mình. Theo <according to> Deloitte, khách hàng yêu cầu “thông tin và hướng dẫn <guidance> chi tiết hơn về các vấn đề bền vững, cách tiếp cận để giải quyết khủng hoảng <crisis> khí hậu và quản trị doanh nghiệp tốt”. Mặc dù đáng chú ý <notable> nhưng những nỗ lực này vẫn chưa thể tích hợp đầy đủ các nghiên cứu về khoa học, quản lý và kinh tế. Thành thật mà nói <Frankly>, chúng là sự thay thế <substitute> yếu kém cho chương trình MBA tập trung vào khí hậu và được quản lý tốt.
Các trường kinh doanh phải đối mặt với sự sụt giảm <decline> số lượng ứng viên <applicant>. Trong khi đó, sinh viên rất quan tâm đến sự bền vững của doanh nghiệp. Đây chính là cơ hội. Một số trường kinh doanh đang nắm bắt <seize> nó. Hội nghị thượng đỉnh <Summit> ClimateCAP cho phép sinh viên MBA nghiên cứu những tác động trong tương lai <implication> của biến đổi khí hậu đến hoạt động kinh doanh. Trường Kinh doanh Haas của UC Berkeley và chương trình MBA/Thạc sĩ <Master> Giải pháp Khí hậu của Trường Đại học Tài nguyên Thiên nhiên Rausser cũng đang thực hiện những bước đầu <initial>.
Nhưng nhìn chung <overall>, các trường kinh doanh đang nỗ lực để đáp ứng yêu cầu <play catch-up> đào tạo ra những sinh viên tốt nghiệp có khả năng vượt qua các giới hạn <boundary> kỷ luật <disciplinary>. Họ cần tích hợp hơn nữa các khóa học liên ngành vào chương trình giảng dạy của mình, kết hợp giữa khoa học môi trường, kế toán carbon và quản trị chiến lược. Các trường kinh doanh không thích ứng có nguy cơ bị bỏ lại phía sau, còn những trường nắm lấy <embrace> xu hướng tích hợp này sẽ đi đầu trong việc đào tạo thế hệ lãnh đạo tiếp theo về tính bền vững của doanh nghiệp.
Magali Delmas là giáo sư quản lý tại Trường Quản lý Anderson (Anderson School of Management) và Viện Môi trường và Bền vững UCLA (UCLA Institute of the Environment and Sustainability), đồng thời là giám đốc Trung tâm Tác động UCLA (UCLA Center for Impact).
Brad Sparks là giám đốc điều hành của Tổ chức Kế toán bền vững (A4 S) Hoa Kỳ. Ông cũng là giảng viên tại Trường Quản lý UCLA Anderson.
Comments