Bên trong làn sóng mở rộng các trường tôn giáo dành cho nữ sinh trên khắp Afghanistan
- Transderledge

- 24 thg 9
- 9 phút đọc
‘They do not teach us what we need’: Inside the expansion of religious schools for girls across Afghanistan
CNN (by Isobel Yeung and Mick Krever - Aug 4, 2025, 4:43 AM ET)
Bài gốc: https://edition.cnn.com/2025/08/04/asia/afghanistan-religious-schools-for-girls-expansion-intl-cmd
Mức độ: B - Trung bình
CEFR level | Số từ | Tỉ lệ |
Tổng | 1566 | 100% |
A1 | 1105 | 71% |
A2 | 125 | 8% |
B1 | 79 | 5% |
B2 | 74 | 5% |
C1 | 40 | 3% |
Không phân loại | 143 | 9% |

Kabul, Afghanistan – “Em muốn…” - cô bé ngập ngừng - “em từng muốn trở thành bác sĩ. Nhưng khi Taliban đến Afghanistan, mọi cánh cửa trường học đều đóng lại.”
Bên trong trường madrasa Naji-e-Bashra – một trường học tôn giáo chỉ dành cho nữ, được Taliban phê chuẩn, nằm ở ngoại ô Kabul – một thiếu nữ che kín mặt nói chuyện đầy lo lắng. Bên dưới <beneath> bàn, bạn cùng lớp níu lấy cánh tay em, hiểu rằng bất kỳ lời chỉ trích <criticism> nào nhắm vào chính quyền Taliban cầm quyền <ruling> đều là điều không nên <ill-advised>.
Dù không hoàn hảo, những tổ chức <institution> tôn giáo này lại là lựa chọn duy nhất cho hầu hết các bé gái Afghanistan trên 12 tuổi muốn tiếp cận bất kỳ hình thức giáo dục nào. Afghanistan hiện là quốc gia duy nhất trên thế giới cấm <prohibit> trẻ em gái và phụ nữ theo học phổ thông từ bậc trung học trở lên.
Lệnh cấm này là một phần trong cuộc đàn áp <crackdown> toàn diện nhắm vào quyền phụ nữ mà Taliban tiến hành kể từ khi lên nắm quyền vào tháng 8 năm 2021. Chính quyền quy định cách ăn mặc của phụ nữ, nơi họ được phép và không được phép đến, và họ phải đi cùng ai – chẳng hạn như khi đi xa, họ bắt buộc phải có một người nam giám hộ đi cùng.
Tháng 7 năm nay, Tòa án Hình sự Quốc tế <International Criminal Court> đã yêu cầu phát lệnh <warrant> bắt giữ hai thủ lĩnh cấp cao của Taliban, vì ngược đãi <persecution> phụ nữ và trẻ em gái là bằng chứng của tội ác chống lại loài người <humanity>. Taliban lên án <denounce> tòa án, cho rằng điều đó thể hiện “sự thù địch <enmity> và hận thù <hatred> đối với Hồi giáo thuần tuý <pure>.”
Ban đầu, Taliban tuyên bố việc đình chỉ <suspension> giáo dục cho nữ giới sẽ chỉ là tạm thời <temporary>, một số lãnh đạo còn nói rằng họ muốn mở lại các trường học chính quy <mainstream> sau khi tình hình an ninh được giải quyết <resolve>. Nhưng bốn năm trôi qua, phe cực đoan của Taliban dường như đang thắng thế. Các trường học phi tôn giáo, đại học và thậm chí cả trung tâm đào tạo y tế <healthcare> vẫn bị đóng cửa đối với nữ giới, tức một nửa dân số. Theo báo cáo của UNESCO (thuộc Liên Hợp Quốc) công bố vào tháng 3, có gần 1,5 triệu nữ sinh bị cấm theo học trung học cơ sở kể từ năm 2021.
“Chúng tôi đã yêu cầu nữ sinh phải đội hijab đúng quy định, nhưng họ không tuân theo. Họ mặc váy như đi dự tiệc cưới,” quyền Bộ trưởng <acting Minister> Giáo dục Đại học Nida Mohammad Nadim phát biểu trên truyền hình nhà nước vào tháng 12 năm 2022, giải thích lý do trường học bị đóng cửa. “Nữ sinh đang học nông nghiệp <agriculture> và kỹ thuật, nhưng điều đó không phù hợp với văn hóa Afghanistan. Con gái nên học, nhưng không phải trong những lĩnh vực đi ngược lại Hồi giáo và danh dự <honor> Afghanistan.”
Trong khi đó, số lượng madrasa (trường tôn giáo) dành cho cả nam và nữ trên khắp Afghanistan tăng vọt. Theo dữ liệu từ Bộ <Ministry> Giáo dục, đã có 22.972 madrasa công lập được thành lập <establish> trong ba năm qua.
Tại madrasa Naji-e-Bashra, nơi hiếm hoi CNN được phép ghi hình trong vài tuần gần đây, lượng học sinh nhập học tăng mạnh kể từ khi Taliban tước đoạt <deprive> quyền được hưởng nền giáo dục “chính quy” của trẻ em gái.
Tiếng hàng chục bé gái đọc kinh Quran vang vọng <echo> khắp hành lang, những cuốn Quran và sách tôn giáo với chữ mạ vàng xếp thành chồng trên sàn lớp học. Trong phòng hiệu trưởng <principal>, một lá cờ Taliban lớn dựng ở góc phòng. Ngay giữa bàn là giấy chứng nhận <certificate> đóng dấu của Bộ Giáo dục Taliban. Taliban quy định chương trình giảng dạy <curriculum> ở đây – cũng như ở tất cả các madrasa trên cả nước.
Vì là cơ sở <facility> tư thục, được những phụ huynh có điều kiện tài trợ, giáo viên có phần tự do <leeway> hơn, được giảng dạy thêm ngoại ngữ và khoa học bên cạnh <alongside> các môn học Hồi giáo. Trong khi đó, tại các madrasa công lập, được chính phủ Taliban cấp kinh phí, chương trình học gần như hoàn toàn <entirely> là nội dung tôn giáo.
Năm 2022, Taliban công bố kế hoạch thay đổi chương trình học, với nhiều điều chỉnh mà theo báo cáo của Trung tâm Nhân quyền Afghanistan – một tổ chức giám sát <monitor> nhân quyền – là “không chỉ thất bại trong việc đáp ứng những mục tiêu phát triển con người của các văn kiện nhân quyền quốc tế, mà còn dạy học sinh nội dung khuyến khích bạo lực <violence>, chống đối <oppose> văn hóa khoan dung <tolerance>, hòa bình, hòa giải <reconciliation>, và các giá trị nhân quyền.”
Báo cáo được công bố vào tháng 12 năm ngoái tố cáo <allege> rằng Taliban đã “điều chỉnh các mục tiêu giáo dục để phù hợp với <align with> tư tưởng <ideology> cực đoan <extremist> và bạo lực của mình.” Báo cáo cho biết họ đã sửa đổi <amend> sách giáo khoa <textbook> lịch sử, địa lý và tôn giáo, đồng thời cấm giảng dạy các khái niệm <concept> như dân chủ <democracy>, quyền phụ nữ và nhân quyền.

“Học sinh rất hài lòng với môi trường, chương trình giảng dạy và đội ngũ giáo viên,” ông Shafiullah Dilawar, hiệu trưởng trường madrasa Naji-e-Bashra, một người tự nhận là ủng hộ Taliban, cho biết. “Chương trình đào tạo trong trường madrasa đã được thiết kế theo cách rất có lợi <beneficial> cho vai trò của người mẹ trong xã hội, để họ có thể nuôi dạy con cái trở thành người tốt.”
Ông bác bỏ <deny> mọi ý kiến cho rằng các cơ sở giáo dục như vậy đang được sử dụng để phục vụ cho các mục tiêu tư tưởng của Taliban.
Hiệu trưởng nhấn mạnh rằng vì người dân Afghanistan rất sùng đạo nên nhiều gia đình hài lòng <satisfied> với hình thức giáo dục này dành cho các bé gái – và kêu gọi cộng đồng quốc tế ủng hộ nỗ lực của ông.
Taliban đã từ chối nhiều <multiple> yêu cầu phỏng vấn.
Những ngôi trường bí mật
Tuy nhiên, nhiều bé gái và phụ nữ ở Afghanistan cho rằng các trường madrasa không thể thay thế cho nền giáo dục mà họ đã dần dần được tiếp cận trong hai thập kỷ trước khi <preceding> cuộc rút quân <withdrawal> hỗn loạn của Mỹ diễn ra vào năm 2021.
“Tôi chưa bao giờ có hứng thú đi học ở madrasa. Họ không dạy chúng tôi những gì chúng tôi cần học,” Nargis, một phụ nữ 23 tuổi ở Kabul, nói qua một đường dây điện thoại bảo mật. CNN đã quyết định sử dụng tên giả <pseudonym> để đảm bảo an toàn cho cô.
Nargis là một học sinh gương mẫu. Cô tận tâm <conscientious>, có tổ chức, chăm chỉ và học hành siêng năng suốt cuộc đời mình.
Vào thời điểm quân đội <troop> Mỹ rút khỏi thành phố, Nargis đang học ngành kinh tế <economics> tại một trường đại học tư. Cô sẽ đến lớp vào buổi sáng, làm bán thời gian vào buổi chiều, rồi tự học tiếng Anh vào buổi tối. Cô chưa bao giờ chán học.
“Nếu bốn năm trước bạn hỏi tôi muốn làm gì với cuộc đời mình, tôi có rất nhiều mục tiêu, ước mơ và hy vọng,” cô nói đầy nuối tiếc <wistfully>. “Khi ấy, tôi muốn trở thành một nữ doanh nhân thành đạt. Tôi muốn nhập khẩu hàng hóa từ các nước khác. Tôi muốn có một trường học lớn dành cho nữ giới. Tôi muốn học Đại học Oxford. Có lẽ tôi sẽ mở quán cà phê của riêng mình.”
Tất cả đã thay đổi vào tháng 8 năm 2021. Cô không còn được phép đến lớp, không còn việc làm và, theo lời cô nói, không còn khả năng mơ về tương lai mà cô từng vạch ra <map out> cho bản thân – tất cả chỉ vì cô là phụ nữ.
Nhưng điều làm tan nát trái tim cô là khi nhìn thấy gương mặt của hai em gái, lúc đó mới 11 và 12 tuổi, một ngày nọ trở về nhà và nói với cô rằng trường của các em đã bị đóng cửa.
“Các em đã không ăn uống gì suốt một tháng. Chúng suy sụp hoàn toàn,” Nargis kể lại <recount>. “Tôi nhận ra rằng nếu cứ như thế này thì các em sẽ phát điên mất. Vì vậy, tôi quyết định giúp chúng học. Thậm chí nếu tôi mất tất cả, tôi cũng sẽ làm điều này.”
Nargis bắt đầu tìm lại tất cả sách giáo khoa cũ của mình và dạy cho hai em gái mọi thứ cô đã học được. Họ hàng và hàng xóm cũng bắt đầu nhờ cô giúp đỡ – và cô khó lòng từ chối.
Và cứ thế, mỗi sáng đúng 6 giờ, trước khi các lính gác Taliban thức dậy, khoảng 45 nữ sinh, từ 12 tuổi trở lên, lén lút <sneak> băng qua thành phố để đến nhà của gia đình Nargis. Nargis không có bất kỳ sự hỗ trợ hay nguồn tài trợ nào – và các em thường phải tụm lại <huddle> quanh một cuốn sách giáo khoa, dùng chung vở và bút.
Các em cùng nhau học toán, khoa học, tin học và tiếng Anh. Nargis cố gắng nhớ lại <rack her brain> tất cả những kiến thức mà cô đã tích lũy <accumulate> để truyền đạt <impart> cho học sinh .
Khi đến giờ các em trở về nhà, cô lo lắng không nguôi.
“Việc đó rất nguy hiểm. Không có một ngày nào trong tuần mà tôi có thể thư giãn. Mỗi ngày khi các em đến, tôi lại lo lắng vô cùng. Điều đó khiến tôi phát điên. Nó rất mạo hiểm,” cô nói, trong nỗi sợ Taliban sẽ phát hiện ra lớp học tạm bợ của mình và đóng cửa nó – như họ từng làm trước đây.
Hai tháng trước, các thành viên của Taliban đã đến lục soát <raid> căn nhà nơi cô dạy học. Cô bị bắt giam một đêm và bị khiển trách <reprimand> vì việc làm của mình. Bố và những người đàn ông khác trong gia đình đã van nài <beg> cô dừng lại, nói rằng việc đó không đáng. Nhưng dù rất sợ hãi <terrified>, Nargis không bỏ mặc <abandon> học sinh của mình. Cô đã chuyển địa điểm và tiếp tục <carry on>.

Cho đến đầu năm nay, USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ) đã tài trợ <fund> cho các trường học bí mật trên khắp cả nước – được gọi là “giáo dục dựa vào cộng đồng” – cũng như các chương trình du học và học bổng <scholarship> trực tuyến. Với việc hủy bỏ các hợp đồng viện trợ <aid contract> trị giá 1,7 tỷ đô la (trong đó 500 triệu đô la vẫn chưa được giải ngân <disburse>) dưới thời chính quyền <administration> Trump, một số chương trình giáo dục đó giờ đây đang dần kết thúc <wind down>.
Bản thân Nargis từng là người thụ hưởng <beneficiary> của một chương trình như vậy, theo học trực tuyến Cử nhân Quản trị Kinh doanh trong một chương trình do Mỹ tài trợ. Cô cho biết chương trình ấy đã bị hủy bỏ <cancel> vào tháng trước. Đó là đòn cuối cùng giáng xuống <the nail in the coffin> những hoài bão của Nargis. Không chỉ là chấm dứt việc học, mà còn “chấm dứt mọi hy vọng và ước mơ của tôi.”
Nargis cố gắng giữ cho mình bận rộn. Nhưng thường xuyên hơn cô mong muốn, cảm giác tuyệt vọng <despair> len lỏi <creep> và cô tự hỏi liệu việc học hành chăm chỉ và mạo hiểm nhiều đến thể để giáo dục em gái và bạn bè có còn ý nghĩa gì không. Ở Afghanistan dưới chế độ Taliban, phụ nữ không được tiếp xúc với đàn ông không cùng huyết thống – cũng không thể làm bác sĩ, luật sư, hay làm việc ở hầu hết các không gian công cộng.
“Mẹ tôi chưa từng được đi học. Bà luôn kể cho chúng tôi nghe về cuộc sống dưới chính quyền Taliban trước đây, và vì vậy chúng tôi đã học hành rất chăm chỉ… Nhưng giờ thì tôi và mẹ có gì khác biệt?” cô hỏi. “Tôi có học vấn, nhưng cả hai chúng tôi đều phải ở nhà.
“Chúng tôi đang cố gắng hết mình để làm gì? Cho công việc nào, tương lai nào đây?”




Bình luận