The Devastating Economic Impacts of an Abortion Ban
The New Yorker (By Sheelah Kolhatkar – May 11, 2022)
Bài gốc: https://www.newyorker.com/business/currency/the-devastating-economic-impacts-of-an-abortion-ban
Mức độ: B – Trung bình
CEFR level | Số từ | Tỉ lệ |
Tổng | 1147 | 100% |
A1 | 724 | 63% |
A2 | 116 | 10% |
B1 | 69 | 6% |
B2 | 78 | 7% |
C1 | 37 | 3% |
Không phân loại | 123 | 11% |
Việc lật ngược <overturn> vụ Roe kiện Wade sẽ cản trở nghiêm trọng đến triển vọng <prospects> về giáo dục, việc làm và thu nhập của phụ nữ.
Tháng 12 năm ngoái, các buổi tranh luận miệng <oral argument> trước Tòa án Tối cao <Supreme> về vụ Dobbs kiện Tổ chức Y tế Phụ nữ Jackson đã diễn ra. Đây là vụ việc dẫn tới bản dự thảo <draft> bị rò rỉ <leak> vào tuần trước mà nếu được thông qua <finalize> thì sẽ lật ngược vụ Roe kiện Wade. Trong một khoảnh khắc đặc biệt, Chánh án <Chief Justice> John Roberts đã cố gắng <attempt> kéo Julie Rikelman - giám đốc tố tụng <litigation> của Trung tâm Quyền sinh sản <reproductive>, người đang thuyết phục để lật ngược lệnh cấm phá thai <abortion> sau 15 tuần ở bang Mississippi – vào một cuộc tranh luận qua lại <back-and-forth> - về tầm quan trọng <significance> của điểm giới hạn <cutoff> cho việc phá thai. Rikelman đưa ra một lập luận rộng hơn <broader>, rằng việc thu hẹp <narrow> quyền tiếp cận của phụ nữ với thủ tục <procedure> phá thai có thể gây hại <harm> một cách không cân xứng <disproportionately> cho những phụ nữ có thu nhập thấp hoặc đang gặp khủng hoảng <crises> cá nhân. Bà đưa ra những con số để củng cố <bolster> lập luận của mình. Rikelman nói, “Trên thực tế, số liệu đã cho thấy rất rõ ràng trong 50 năm qua rằng phá thai là rất quan trọng <critical> đối với sự tham gia <participation> xã hội một cách bình đẳng của phụ nữ. Nó rất quan trọng đối với sức khỏe, cuộc sống và nỗ lực của họ— ”
“Tôi xin lỗi nhưng số liệu đó là gì vậy?” Roberts ngắt lời <interrupt>.
Khi Rikelman cố gắng trả lời, Roberts lại cắt ngang. “Chà, để số liệu đó sang một bên <put st aside> đã,” ông nói, “tại sao 15 tuần lại không phù hợp <inappropriate>?”
Nghe cuộc trao đổi, Caitlin Myers, một giáo sư kinh tế <economics> nghiên cứu về giới tính <gender>, chủng tộc và tác động của các chính sách sức khỏe sinh sản đối với cuộc sống của con người tại Đại học Middlebury, đã rất ngạc nhiên <stun>. Tại sao một Thẩm phán Tòa án Tối cao, khi xem xét một vấn đề quan trọng <crucial> như vậy, lại không quan tâm đến "số liệu"? Các đồng nghiệp của Roberts cũng đã thể hiện một sự coi thường <disregard> tương tự trong bản dự thảo về vụ Dobbs được Politico công bố: các Thẩm phán đề xuất dự thảo này dường như không quan tâm đến vấn đề. Trong khi quyết định ban đầu của Roe thừa nhận <acknowledge> rằng việc bắt mọi người mang thai và nuôi dạy những đứa trẻ không mong muốn có thể "buộc" phụ nữ phải chịu "một cuộc sống và tương lai đau khổ <distressful>", thì dự thảo do Thẩm phán Samuel Alito viết, hầu như không <barely> đề cập đến những cách mà việc mất quyền tiếp cận với phá thai hợp pháp và an toàn sẽ cản trở <hamper> đáng kể <substantial> khả năng tham gia xã hội đầy đủ <fully> của phụ nữ.
Vào mùa thu năm ngoái, Myers đã triệu tập <marshal> 154 nhà kinh tế <economist> để đệ trình <file> một bản tóm tắt <brief> phản đối lệnh cấm phá thai, trong đó họ chỉ ra <outline> hàng thập kỷ nghiên cứu về việc mang thai <pregnancy> ngoài ý muốn <unwanted> có thể ảnh hưởng như thế nào đến triển vọng học hành, làm việc và thu nhập của phụ nữ, và có thể tác động rộng hơn đến thị trường lao động <labor>. “Các nhà kinh tế nói chung đều đồng tình về điều này,” Myers nói. “Đây không phải là câu hỏi về mức lương tối thiểu <minimum> - nếu bạn đưa ra câu hỏi đó, thì họ sẽ bắt đầu tranh cãi. Nhưng nếu bạn hỏi về vai trò của việc có con <childbearing> đối với cuộc sống của phụ nữ thì họ lại không bàn nhiều về nó. "
Nguồn: Unsplash
Tiffany Green, một nhà kinh tế và nhà khoa học dân số-sức khỏe, đồng thời là phó giáo sư tại Trường Y và Y tế Công cộng thuộc Đại học Wisconsin, lưu ý rằng nhiều tác động trong số đó sẽ rơi vào những người vốn đã không được coi trọng <marginalized> - đặc biệt là phụ nữ da màu và những người chuyển giới và phi nhị nguyên giới <nonbinary>. Một vài số liệu thống kê giúp làm rõ <clarify> ảnh hưởng của chủng tộc và giai cấp đối với những người sẽ bị tổn hại nhiều nhất: vào năm 2014, 49% trong tất cả các ca phá thai được thực hiện <obtain> bởi những người dưới mức nghèo <poverty line> của liên bang <federal>. Tính đến năm 2004, khoảng một phần ba là người da trắng, 37% là người da đen, và 22% là người gốc Tây Ban Nha. Phụ nữ da đen có khả năng mang thai ngoài ý muốn <uninteded> cao hơn đáng kể so với phụ nữ da trắng, do <owing to> sự chênh lệch <disparity> về kinh tế và hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng như các yếu tố khác; sinh con cũng nguy hiểm hơn đối với phụ nữ da đen. Green nói với tôi rằng “Dù bạn có tin phá thai là một việc có đạo đức <moral> hay không thì bằng chứng vẫn là bằng chứng. “Và sức ép <thrust> áp đảo <overwhelming> của các bằng chứng là điều này sẽ tác động tiêu cực đến và triển vọng kinh tế của phụ nữ và những người mang thai <pregnant> khác, sức khỏe tinh thần, sức khỏe thể chất của họ và sau cùng <ultimately> là cuộc sống của họ. Sự chấm dứt của vụ Roe kiện Wade có khả năng sẽ gây ra hậu quả <fallout> vô cùng tồi tệ."
Trong bản tóm tắt được đệ trình lên Tòa án, Thomas Dobbs và Bang Mississippi đã trình bày một lập luận về việc làm cha mẹ <parenthood> hiện đại dường như tách rời <disconnect> thực tế. Dobbs, nhân viên y tế bang Mississippi cho rằng quyết định của vụ Roe kiện Wade — và vụ Planned Parenthood kiện Casey diễn ra sau đó <subsequent> ủng hộ <uphold> Roe vào năm 1992 của Tòa án Tối cao, — đơn giản là không còn phù hợp <relevant to> với phụ nữ và cha mẹ. "Sự thay đổi đã khiến Roe và Casey bị bỏ lại phía sau," theo bản tóm tắt. Nó tiếp tục cho rằng các yếu tố như khả năng tiếp cận các biện pháp tránh thai <contraception>, luật về nghỉ phép gia đình và sự sẵn có <availability> của dịch vụ chăm sóc trẻ em đã làm cho <render> vấn đề này không liên quan <irrelevant>. Hơn nữa <Furthermore>, bản tóm tắt viết rằng tất cả 50 tiểu bang đều có luật “safe haven” cho phép giao những đứa trẻ mới sinh <newborn> không mong muốn cho chính phủ để chúng có thể được nhận làm con nuôi <adopt>, thường không tra hỏi lí do. Theo bản tóm tắt, tất cả những sự phát triển này “tạo điều kiện thuận lợi <facilitate> cho phụ nữ có thể theo đuổi <pursue> cả sự nghiệp thành công và cuộc sống gia đình.” Myers đáp lại: "Bạn không cần một nhà kinh tế học với những số liệu thống kê để nhận ra rằng điều đó thật nực cười <laughable>."
Việc hợp pháp hóa <legalization> phá thai, vào những năm 70, đã có những tác động mạnh mẽ <dramatic> đến độ tuổi và hoàn cảnh <circumstance> khi phụ nữ trở thành mẹ. Nó làm giảm 1/3 số bà mẹ ở độ tuổi thanh thiếu niên và 1/5 số phụ nữ kết hôn khi còn là thanh thiếu niên. Myers nói: “Những tác động đó tập trung ở phụ nữ trẻ và phụ nữ da màu. "Ngay cả khi phá thai là bất hợp pháp, những phụ nữ có đủ khả năng sẽ tìm ra cách." Những phụ nữ có thể trì hoãn <delay> việc làm mẹ <motherhood> thông qua việc phá thai hợp pháp có nhiều khả năng học xong đại học, theo đuổi các bằng cấp cao hơn, làm việc lâu hơn và làm những công việc <occupation> được trả lương cao hơn; họ ít có khả năng rơi vào cảnh nghèo đói sau này. "50 năm sau, câu hỏi là: nó có còn quan trọng không?" Myers nói về việc tiếp cận với phá thai. “Tóm lại <In short>, câu trả lời là có.”
Dự thảo cho rằng các thành viên bảo thủ <conservative> của Tòa án chấp nhận phiên bản giả tưởng <fantasy> được trình bày bởi lập luận của Dobbs — hoặc có lẽ họ chỉ đơn giản là không nghĩ rằng những tác động kinh tế tiềm tàng <potential> của lệnh cấm phá thai đối với cuộc sống của phụ nữ có liên quan đến cuộc tranh luận. Thật ra, hầu hết mọi người không được hưởng chế độ nghỉ phép gia đình có lương: Hoa Kỳ là một trong số ít các quốc gia không đảm bảo <guarantee> việc nghỉ phép có lương cho cha mẹ mới. Chi phí chăm sóc trẻ em cực kỳ đắt đỏ, trung bình hơn 1000 đô-la một tháng đối với trẻ sơ sinh <infant>. Nghiên cứu được thực hiện <conduct> bởi các nhà kinh tế học như Claudia Goldin tại Harvard, và Francine Blau tại Đại học Cornell, đã chỉ ra rằng khoảng cách lương theo giới tính bắt đầu tăng lên khi phụ nữ trở thành mẹ. Các biện pháp bảo vệ <protection> tại nơi làm việc <workplace> dành cho các bà mẹ chủ yếu áp dụng cho những người có bằng đại học; với những người lao động làm việc theo ca với giờ làm việc không cố định có rất ít biện pháp bảo vệ <safeguard> được áp dụng. “Tôi nghĩ chúng ta cần số liệu. Chúng tôi có số liệu và chúng tôi đã đưa nó cho họ, ”Myers nói với tôi. "Và có vẻ như nó không hề được phản ánh trong bản dự thảo đó."
Comments