The AI-Powered, Totally Autonomous Future of War Is Here (P1)
WIRED (By Will Knight - Jul 25, 2023 6:00 AM)
Mức độ: B - Trung bình
CEFR level | Số từ | Tỉ lệ |
Tổng | 1164 | 100% |
A1 | 727 | 62% |
A2 | 125 | 11% |
B1 | 59 | 5% |
B2 | 57 | 5% |
C1 | 38 | 3% |
Không phân loại | 158 | 14% |
Những con tàu không có thủy thủ đoàn <crew>. Dàn máy bay không người lái <drone> tự định hướng. Lực lượng đặc nhiệm <task force> của Hải quân Hoa Kỳ đang sử dụng robot và trí tuệ nhân tạo <artificial> có sẵn <off-the-shelf> như thế nào để chuẩn bị cho thời kỳ xung đột <conflict> tiếp theo.
MỘT HẠM ĐỘI <FLEET> tàu rô-bốt nhấp nhô <bob> nhẹ nhàng trong vùng nước ấm của Vịnh Ba Tư, đâu đó giữa Bahrain và Qatar, cách bờ biển Iran khoảng 100 dặm (160 km). Tôi đang ở trên một chiếc thuyển máy của Tuần duyên <Coast Guard> Hoa Kỳ gần đó <nearby>, nheo mắt <squint> nhìn ra phía mà tôi nghĩ là mạn trái <port side>. Vào buổi sáng một ngày đầu tháng 12 năm 2022, đường chân trời <horizon> lác đác các tàu chở dầu, tàu chở hàng <cargo> và những chiếc thuyền buồm dhow đánh cá nhỏ, tất cả đều lung linh <shimmering> trong ánh nắng. Khi thuyền máy lướt nhanh <zip> vòng quanh hạm đội tàu rô-bốt, tôi ao ước <long for> có một chiếc ô che nắng <parasol>, hoặc thậm chí là một đám mây.
Các robot không cần bóng râm <shade> một cách đáng thương <pathetic> như con người, chúng cũng không yêu cầu bất kỳ tiện nghi <amenity> sinh học <biological> nào khác. Điều này thể hiện rõ <evident> trong thiết kế của chúng. Một số robot giống với <resemble> tàu tuần tra <patrol> điển hình như cái tôi đang đi, nhưng hầu hết đều nhỏ hơn, gọn hơn, thấp gần mặt nước hơn. Một chiếc trông giống như thuyền kayak chạy bằng năng lượng mặt trời. Chiếc khác thì trông giống ván lướt sóng với cánh buồm <sail> bằng kim loại. Tuy nhiên, có một chiếc lại làm tôi liên tưởng đến ô tô Google Street View gắn trên những con thuyền phao <pontoon>.
Những cỗ máy này đã tập trung <muster> ở đây cho một cuộc tập trận của Lực lượng Đặc nhiệm 59, một nhóm thuộc Hạm đội 5 của Hải quân Hoa Kỳ. Trọng tâm của nó là người máy và trí tuệ nhân tạo, hai công nghệ đang phát triển <evolve> nhanh <rapidly>, định hình <shape> tương lai của chiến tranh. Nhiệm vụ <mission> của Lực lượng Đặc nhiệm 59 là mau chóng tích hợp <integrate> chúng vào các hoạt động hải quân <naval>, bằng cách mua <acquire> công nghệ có sẵn mới nhất từ các nhà thầu <contractor> tư nhân và kết hợp các bộ phận lại với nhau thành một tổng thể chặt chẽ. Cuộc tập trận ở vùng Vịnh <the Gulf> đã quy tụ hơn một tá <dozen> nền tảng/phần mềm không người lái—tàu <vessel> mặt nước, tàu lặn <submersible>, máy bay không người lái. Chúng sẽ là tai mắt <eyes and ears> của Lực lượng Đặc nhiệm 59: Chúng sẽ quan sát bề mặt đại dương bằng camera và radar, lắng nghe bên dưới <beneath> mặt nước bằng đầu thu sóng trong nước <hydrophone> và chạy dữ liệu chúng thu thập được thông qua các thuật toán đối sánh mẫu để phân biệt tàu chở dầu và tàu buôn lậu <smuggler>.
Một người đàn ông cùng trên thuyền máy hướng sự chú ý của tôi vào một trong những con tàu kiểu ván lướt sóng. Nó đột ngột <abrupt> gập buồm xuống, giống như một con dao bấm <switchblade>, và lẩn <slip> xuống dưới làn sóng <swell>. Con tàu tên Triton này có thể được lập trình để làm như vậy khi hệ thống của nó nhận thấy nguy hiểm. Đối với tôi, có vẻ hành động biến mất (ẩn xuống dưới nước) này sẽ hữu ích <handy> trong thực tế: Vài tháng trước cuộc tập trận này, một tàu chiến <warship> Iran đã bắt giữ <seize> hai tàu tự hành Saildrones, loại tàu này không lặn <submerge> được. Hải quân Hoa Kỳ đã phải can thiệp <intervene> để lấy lại chúng.
Triton có thể lặn dưới nước trong vòng 5 ngày, nổi lên lại khi bờ biển không còn trở ngại để sạc pin và gọi điện thoại về nhà. May mắn thay, thuyền máy của tôi sẽ không chờ đợi <hang around> lâu như vậy. Nó khởi động máy và phóng ầm ầm <roar> trở lại bến neo đậu của một chiếc cutter (một loại thuyền buồm nhanh và nhẹ) dài 150 feet (45,72m) của Tuần duyên Hoa Kỳ. Tôi đi thẳng lên boong trên <upper>, nơi tôi biết có một chồng <stack> nước đóng chai bên dưới mái hiên <awning>. Tôi kiểm tra/đánh giá <size up> những khẩu súng máy và súng cối <mortar> hạng nặng đang hướng ra biển khi tôi đi qua.
Boong tàu mát mẻ trong gió khi chiếc cutter quay trở lại căn cứ ở Manama, Bahrain. Trong cuộc hành trình, tôi vô tình có cơ hội trò chuyện với thuỷ thủ đoàn. Tôi háo hức <eager> nói chuyện với họ về cuộc chiến ở Ukraine và việc sử dụng rất nhiều máy bay không người lái ở đó, từ những chiếc quadcopter (máy bay trực thăng 4 cánh quạt) của những người sử dụng theo sở thích <hobbyist> được trang bị <equip> lựu đạn <grenade> cho đến các hệ thống quân sự <military> toàn diện <full-on>. Tôi muốn hỏi họ về một cuộc tấn công gần đây vào căn cứ hải quân do Nga chiếm đóng ở Sevastopol, liên quan đến một số tàu không người lái mang <bear> chất nổ do Ukraine chế tạo—và một chiến dịch huy động vốn cộng đồng công khai để sản xuất thêm. Nhưng người hộ tống <chaperone> tôi, một lính dự bị <reservist> từ công ty truyền thông xã hội Snap, nói rằng chủ đề này sẽ không đi đến đâu. Vì Hạm đội 5 hoạt động <operate> ở khu vực khác nên những người trong Lực lượng Đặc nhiệm 59 không có nhiều thông tin về những gì đang diễn ra ở Ukraine, cô giải thích. Thay vào đó, chúng tôi nói về các trình tạo hình ảnh AI và liệu chúng có khiến các nghệ sĩ mất việc <out of job> hay không, về cách xã hội dân sự <civilian> dường như sắp đạt đến điểm uốn/bước ngoặt/điểm đảo chiều <inflection point> của chính nó với trí tuệ nhân tạo. Sự thật là chúng ta vẫn chưa biết nó tồi tệ đến mức nào <not know the half of it>. Chỉ mới một ngày kể từ khi OpenAI ra mắt <launch> ChatGPT, giao diện <interface> hội thoại sẽ gây sốt trên internet.
Trở lại căn cứ, tôi đi đến Trung tâm Điều hành Người máy (Robotics Operations Center - ROC), nơi một nhóm người giám sát <oversee> các cảm biến được phân bổ <distribute> trên mặt nước. ROC là một căn phòng không có cửa sổ <windowless> với vài dãy bàn và màn hình máy tính—khá bình thường ngoại trừ các bức tường được trang trí <adorn> bằng nhiều câu trích dẫn đầy cảm hứng từ những nhân vật như Winston Churchill và Steve Jobs. Ở đây, tôi gặp Đại úy Michael Brasseur, người chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm 59, một người đàn ông rám nắng <tanned> với cái đầu cạo trọc, hay cười và nheo mắt như một thủy thủ. (Brasseur đã nghỉ hưu từ Hải quân.) Anh ấy sải bước <stride> giữa các bàn trong khi vui vẻ giải thích cách ROC hoạt động. “Đây là nơi tất cả dữ liệu thu được từ các hệ thống vận hành tự động <unmmanned> được hợp nhất <fuse> và là nơi chúng tôi tận dụng <leverage> AI và máy học <machine learning> để có được một số hiểu biết sâu sắc <insight> thực sự thú vị,” Brasseur nói, xoa <rub> hai tay vào nhau và cười tươi <grin>.
Các màn hình <monitor> nhấp nháy. Trí tuệ nhân tạo của Lực lượng Đặc nhiệm 59 đánh dấu các tàu khả nghi <suspicious> trong khu vực. Nó đã cắm cờ một số tàu ngày hôm nay không khớp với tín hiệu nhận dạng <identification> của chúng, gợi ý <prompt> hạm đội phải xem xét kỹ hơn. Brasseur cho tôi xem một giao diện <interface> mới đang được phát triển, giao diện này sẽ cho phép nhóm của anh ấy thực hiện nhiều tác vụ trên một màn hình, từ việc xem nguồn cấp dữ liệu camera của tàu không người lái tới việc chỉ đạo nó tiến đến gần hơn.
“Nó có thể giao chiến <engage> một cách tự động, nhưng chúng tôi không khuyến khích điều đó. Chúng tôi không muốn bắt đầu Thế chiến III.”
Brasseur và những người khác tại căn cứ nhấn mạnh rằng các hệ thống tự hành mà họ đang thử nghiệm chỉ để cảm biến <sense> và dò tìm <detection>, không phải để can thiệp <intervention> vũ trang <armed>. “Trọng tâm hiện tại của Lực lượng Đặc nhiệm 59 là tăng cường <enhance> tầm nhìn,” Brasseur nói. “Mọi thứ chúng tôi làm ở đây đều nhằm hỗ trợ các thuyền có thuỷ thủ.” Nhưng một số tàu robot tham gia cuộc tập trận minh họa <illustrate> khoảng cách giữa không vũ trang và vũ trang có thể ngắn như thế nào — đó là vấn đề về hoán đổi trọng tải <payload> và điều chỉnh phần mềm. Một chiếc thuyền máy tự động, Seagull, được thiết kế để săn mìn <mine> và tàu ngầm bằng cách kéo <drag> một mảng <array> sonar (sound navigation and ranging) khi nó hoạt động. Amir Alon, giám đốc cấp cao <senior> của Elbit Systems, công ty <firm> quốc phòng <defense> của Israel đã tạo ra Seagull, nói với tôi rằng nó cũng có thể được trang bị súng máy điều khiển từ xa và ngư lôi <torpedo> phóng từ boong tàu. “Nó có thể giao chiến một cách tự động, nhưng chúng tôi không khuyến khích điều đó,” anh cười nói. “Chúng tôi không muốn bắt đầu Thế chiến III.”
Không, chúng tôi không hề muốn. Nhưng câu châm biếm <quip> của Alon chạm đến một sự thật quan trọng: Các hệ thống tự hành có khả năng <capacity>tiêu diệt đã tồn tại trên toàn cầu. Trong bất kỳ cuộc xung đột lớn nào, thậm chí còn kém xa Thế chiến III, mỗi bên sẽ sớm phải đối mặt với sự cám dỗ <temptation> không chỉ là trang bị các hệ thống này mà trong một số tình huống, còn là loại bỏ sự giám sát của con người, giải phóng <free> chúng để chiến đấu với tốc độ máy. Trong cuộc chiến giữa AI và AI này, chỉ có con người sẽ chết. Vì vậy, hoàn toàn có lý <reasonable> khi tự hỏi: Những cỗ máy này và những người chế tạo ra chúng có suy nghĩ gì?
Comments